3. Lý thuyết Nét

Lý thuyết về nét - xương sống của tạo hình chữ. Nắm được cách nghiên cứu và thực hành từ bản chất của calligraphy.

1. Cấu tạo Nét - Mảng

Nét là yếu tố căn bản nhất. Không thể vẽ nên một hình chỉ bằng đường viền vì bất cứ hình nào (bao gồm cả đường viền) cũng đều bắt đầu với mảng. Mỗi nét mỏng nhất đều là một mảng hình. Đường viền là biên giới của mảng. Không có mảng thì cũng không có đường viền.

Nét mỏng cỡ nào vẫn là mảng. Có mảng rồi mới có đường viền.

Khi tái tạo lại tạo hình của chữ hoặc sáng tạo tạo hình mới, không thể đi từ đường viền. Khi một người vẽ mảng bằng đường viền thì mảng đó đã tồn tại sẵn trong trí nhớ của họ chứ họ không thể nào tự sáng tạo nên mảng theo đúng logic của nét ngay tại chỗ. Trước đó có thể sử dụng trực tiếp công cụ viết để đi lên từ nét. Từng đường đi đơn lẻ của công cụ tạo ra nét sẽ là chỉ dẫn cho cả mảng và viền.

Bút ngòi dẹt
Bút ngòi nhọn tõe
Bút lông ngòi nhọn
Từ nét sang viền

Một ký tự bao gồm hai mảng: mảng sáng/tối; mảng trắng/đen; mảng dương/âm. Mảng dương là tạo hình chữ, mảng âm là không gian được tạo nên xung quanh tạo hình chữ.

Cho 3 hình tròn cùng diện tích nằm gọn trong 3 hình vuông tương ứng. Tạo hình bên trong mỗi hình tròn giảm dần về diện tích từ lớn - trung bình - bé.

Trong 3 hình tròn, tạo hình nào có trọng lượng thị giác lớn hơn? Tại sao?

Hình số 3 nặng hơn. Mặc dù cả 3 hình tròn đều có diện tích như nhau nhưng diện tích phần không gian âm ở bên trong tạo nên khác biệt lớn. Trái ngược với hình 3, mảng dương ở hình 1 gần như bị nuốt trọn bởi mảng âm.

Trọng lượng thị giác được quyết định bởi tương quan giữa mảng âm và mảng dương. Tạo hình của mỗi phần sẽ ảnh hưởng lên phần còn lại. Khi tạo mảng, ta không tạo chỉ mảng âm hay mảng dương mà đang làm việc với cả hai.

Trong thực tế, một ký tự không nằm trong ô vuông như trên mà đứng tự do trong không gian mở. Một từ thường bao gồm từ hai ký tự liền kề nhau trở lên.

Trong 3 tổ hợp trên, cặp nào liên kết tốt với nhau, cặp nào không? Tại sao?

Trong 2 tổ hợp đầu, khoảng cách giữa 2 ký tự của 2 nhóm này bằng nhau. Nhưng trọng lượng thị giác của mảng âm giữa tổ hợp 2 nhiều hơn nên tạo cảm giác 2 ký tự đang tách xa nhau, thiếu tính liên kết.

“Nhiều hơn” là cái gì nhiều hơn cái gì? Mảng âm giữa hai ký tự này nhiều hơn mảng âm bên trong từng ký tự, gây ra sự mất cân bằng về không gian giữa trong và ngoài.

Sự liên kết giữa các ký tự chính là sự đồng nhất liên tiếp về phân bổ không gian trong và ngoài ký tự. Khi thiết kế, cần phải làm việc với cả mảng âm và mảng dương. (Cụ thể là như thế nào? Sang phần thực hành của Buổi 4 sẽ được nhắc lại)

2. Tương phản Nét

Một nét được tạo nên bởi đường đi liên tục của một hình/mảng trên bề mặt viết. Ví dụ đầu bút là hình tròn thì một chấm tròn được kéo dài liên tục sẽ tạo nên nét thẳng.

Độ dày của nét này bằng đường kính của hình tròn, đường nối liền hai điểm cực biên. Đường này là đường nối biên. Đường nối biên ở đây liền mạch, có chiều hướng song song nhau cùng chiều dài tương tự.

Đường nối biên là đường nối liền hai cực điểm của hình tròn.

Khi sử dụng mảng tròn để tạo thành nét cong, các đường biên không còn nhất quán, di chuyển theo nhiều góc khác nhau nên việc quan sát rõ ràng logic của nét trở nên khó khăn hơn.

Để tiện nghiên cứu tạo hình nét, có thể giản lược mảng này thành 1 đoạn thẳng, mô phỏng nét bút ngòi dẹt (broad-nibbed pen).

Với đường biên là một đoạn thẳng chéo, mảng được tạo nên có nhiều độ tương phản hơn. Độ tương phản nét này quyết định quan trọng tới tạo hình của chữ. Độ tương phản nét phụ thuộc vào: độ co giãn của đường biên (cấu tạo đầu bút dẹt/tròn), góc đường biên tạo với mặt phẳng.

Loại tương phản

Độ co giãn đường biên

Góc đường biên

Kết cấu đầu bút

Tương phản tịnh tiến (translation)

Ko thay đổi

Ko thay đổi

Bút ngòi dẹt - Broad-nibbed Pen

Tương phản đổi hướng (rotation)

Ko thay đổi

Thay đổi (theo chuyển động tay tới ngòi bút)

Bút lông dẹt - Flat Brush

Tương phản mở rộng (expansion)

Thay đổi (theo lực tay tác động tới ngòi bút)

Ko thay đổi

Nhọn - Pointed

Trên thực tế, các kiểu viết tay sẽ sử dụng không chỉ một loại tương phản mà có thể kết hợp với nhau. Ví dụ về từng loại tương phản như sau:

1 - Tương phản tịnh tiến: Đường biên không co giãn, Góc bút cố định

2 - Tương phản đổi hướng: Đường biên không co giãn (hạn chế ấn bút), Góc bút linh hoạt đổi hướng

3 - Tương phản mở rộng: Hướng bút cố định, Đường biên của nét co giãn theo lực ấn của tay

3. Thứ tự Nét

3.1 Cách đi nét

Bên cạnh ảnh hưởng từ cấu tạo ngòi bút và hướng bút, cách đưa nét cũng tạo nên khác biệt cho tạo hình chữ. Xét trên sự liền mạch của nét, có 2 cách viết: đi nét một mạch (không nhấc bút), đi nét ngắt quãng (nhấc bút). Hai cách viết này có thể đem lại 2 khác biệt chính sau đây:

  • Khác biệt về mảng dương: điểm giao nét

  • Khác biệt về mảng âm: cùng một ngòi bút và một kiểu tương phản nét, cách đi nét liền mạch bị hạn chế bởi cấu tạo ngòi dẹt nên khó điều khiển mảng âm giữa các nét hơn. Chữ m thứ 3 gọn gàng hơn hẳn.

3.2 Thứ tự nét

Tùy thuộc vào từng kiểu chữ viết tay, cần nghiên cứu đúng thứ tự nét. Logic chung là đi nét từ trên xuống dưới, trái sang phải. Nét đầu tiên thường lớn nhất và là nét nền tảng, từ đó tạo nên các nét còn lại.

TỔNG KẾT

  • Tư duy bằng công cụ viết, bằng nét, bằng mảng trước khi vẽ bằng đường viền

  • Tham khảo các kiểu chữ calligraphy và kết hợp các loại tương phản cùng các cách đi nét khác nhau để hiểu logic của nét bút > mô phỏng lại > sáng tạo một cách viết mới (mà vẫn dựa trên tạo hình tiêu chuẩn của chữ)

Case-study: https://2020.typemedia.org/ruggero-magri/

  • Khi tạo hình mảng dương, ta cũng đang tạo hình cho mảng âm. Luôn luôn làm cả hai việc cùng một lúc. (VD: vẽ chữ xong spacing từng ký tự luôn - nói kỹ hơn hơn Buổi 4)

Last updated